Monday, April 10, 2023

Tiếp cận tổng thể tới dạy Ngôn Ngữ và Toán

 1.  Nếu như Trí khôn nhân tạo sẽ thay đổi yêu cầu về nhân lực trong tương lai, vai trò của các nhà bác học đa ngành (polymaths) và các chuyên gia tổng quát (expert generalists) sẽ ngày càng lớn, với vai trò tạo ra kết nối giữa các mảng tri thức chuyên ngành, tạo ra giá trị mới. Điều đó có nghĩa là Toán học và Ngôn ngữ sẽ trở lại vai trò như chúng đã từng có ở Kỷ nguyên Phục hưng và Bừng sáng. Tuy nhiên, trong tương lai Toán học và Ngôn Ngữ sẽ phải có một diện mạo mới. Vì vậy việc dạy Toán và Ngôn Ngữ sẽ phải thay đổi đến tận gốc rễ từ Tiểu học hoặc sớm hơn nữa. Trong bài này, chúng tôi sẽ trình bày quan điểm dạy Toán và Ngôn Ngữ theo quan điểm tổng thể. Thay vì kêu gọi một chương trình cải cách giáo dục, mà chắc chắn sẽ biến dạng và chẳng đi đến đâu, chúng tôi dự định tiến hành tiếp cận này bằng các khóa bổ trợ, nhằm vá cách mảnh trí thức manh mún, có nguy cơ trở thành vô dụng. 2. Vào những năm 1990, người ta đã nhận ra rằng việc dạy Ngôn Ngữ theo cách phân tích thành các đơn vị nhỏ và tiến hành lắp ráp lại từ đầu ngày càng trở nên lạc hậu, tốn công sức, thời gian và hiệu quả thấp. Cách tiệm cận tổng thể tới Ngôn ngữ (Whole language approach) đã được chấp nhận rộng rãi [1]. Theo đó, việc dạy Ngôn ngữ được tiến hành theo các dạng thức mà người học sẽ tìm thấy nó trong cuộc sống. Việc giản lược Ngôn ngữ thành các câu mẫu ngô nghê ít gặp trong cuộc sống sẽ đòi hỏi nhiều công sức soạn giáo trình, và ngược lại cũng đòi hỏi nhiều công sức hơn để học viên xóa chúng khỏi bộ nhớ để thích nghi với Ngôn ngữ được sử dụng thực sự trong cuộc sống. Các thử nghiệm thành công đã chứng tỏ cách tiệm cận tổng thể có nhiều ưu thế trong đào tạo hiệu quả hơn. Trong lớp học, thay vì "xay" và "khoan" các mảnh vụn ngôn ngữ, để chết chìm trong những đống quy luật vô nghĩa, người học được tiếp cận tới bức tranh tổng thể, và nhận biết các vấn đề về sử dụng ngôn ngữ để tiếp thụ và diễn đạt các ý tưởng phức tạp.
3. Cách tiếp cận này tới Ngôn Ngữ lập tức có ảnh hưởng tới chương trình học. Thay vì phải đắm mình vào các vấn đề "tự thân" của Ngôn Ngữ, do băm nát Ngôn ngữ thành cách mảnh vụn, rồi đi tìm các quy tắc, mà tuyệt đại đa số có ngoại lệ, để ghép chúng lại với nhau, môn Ngữ Văn được quan niệm là công cụ để nhận thức. Giờ Ngữ Văn hoặc học Tiếng, sẽ dùng để đọc, viết, nghe và nói về các đề tài xuyên suốt qua các mảng tri thức khác nhau. Ngữ Văn sẽ hòa trộn với tri thức và tư duy thay vì bị tách biệt thành quy tắc và tín điều phải chấp nhận. Trong cách tiếp cận này, học sinh sẽ thực sự thao tác, xây dựng ngữ nghĩa trong các project do họ tiến hành, mà kết quả không phải là duy nhất hay phải chấp nhận thụ động từ giáo viên. 4. Vấn đề đặt ra là có thể xây dựng một quan điểm tương tự đối với việc dạy Toán hay không [2]. Cá nhân tôi đã có những thử nghiệm để chứng minh quan điểm: Học sinh kém và ghét Toán bắt đầu từ yếu kém trong việc sử dụng ngôn ngữ. Trước khi giúp các học sinh này học Toán cần phải sửa lỗi sử dụng Ngôn Ngữ trong Toán học và điều đó gắn liền với việc dạy sử dụng Logic trong Ngôn Ngữ. Do đó, tôi đi đến một quan điểm dạy Ngôn Ngữ kết hợp với dạy Toán sẽ giúp phát triển tư duy của trẻ một cách lành mạnh và hiệu quả cho cả học Ngôn Ngữ và học Toán. Nếu có thể dạy Ngôn Ngữ theo tiệm cận tổng thể, quan điểm này cũng sẽ dẫn tới dạy toán theo tiệm cận tổng thể. Chúng ta sẽ coi đó là một giả thuyết và sẽ tìm cơ sở cho nó.
5. Trước hết, chúng ta sẽ xem xét sự tương đồng của Toán học và Ngôn Ngữ. Việc đưa ra một định nghĩa chính xác cho Toán học khó khăn là bởi vì có 3 cách tiếp cận đến Toán học: i. Các tiếp cận logic (coi logic là cơ sở của Toán học), ii. Tiếp cận tạo dựng (coi số tự nhiên là cơ sở của Toán học) và iii. Tiếp cận hình thức (xây dựng Toán học dưới dạng một chuỗi suy diễn hình thức, phi mâu thuẫn). Tuy định lý Godel đã phủ nhận quan điểm iii., nhưng tiếp cận hình thức vẫn là cách tiếp cận chủ đạo hiện nay từ các trường và viện nghiên cứu, tới Tiểu học, thậm chí Mẫu giáo. Do đó gần đây, đã có nhiều ý kiến quanh việc khắc phục các hệ quả của quan niệm này trong giáo dục [2]. 6. Tôi cho rằng, ít nhất đối với đa số người ứng dụng Toán trong cuộc sống, Toán học có thể được coi là một ngôn ngữ để mô tả (định tính và định lượng), kiểm tra tính đúng đắn, suy diễn các tri thức khác nhau được trừu tượng hóa. Như vậy, dạy Toán ở Phổ thông, đặc biệt ở Tiểu học nên bắt đầu bằng các hoạt động phổ quát như đếm, đo, xác định vị trí, thiết kế, quan sát, suy diễn và giải thích [3]. Đương nhiên các hoạt động này phải được thực hiện trong các văn cảnh cụ thể của các vấn đề khoa học, công nghệ, xã hội, kinh tế,... Có người cho rằng Toán học khác Ngôn Ngữ ở chỗ nó có những nội dung độc lập với các đối tượng mà nó mô tả. Tuy nhiên Ngôn Ngữ cũng có các nội dung tự thân của nó. Tôi đồng ý với quan điểm cho rằng Toán học và Ngôn ngữ là hai thiết chế xã hội cơ bản có liên quan với nhau. 7. Trong tiếp cận Toán học tổng thể (Whole Mathematics) sẽ có các đặc trưng [2] a. Đào tạo Toán học phải tiếp cận tới Toán học như một tổng thể, tìm kiếm tối đa điểm liên quan giữa các lĩnh vực Toán học khác nhau b. Nhấn mạnh tới các chức năng của Toán học c. Dạy theo các dự án, có mục tiêu xác định, để lựa chọn công cụ Toán học phù hợp d. Học sinh sẽ đóng vai trò chủ động hơn trong việc xác định nội dung học (thông qua các chuyên đề tự chọn, tự nghiên cứu) e. Toán cần được tích hợp theo các nội dung ứng dụng f. Các hình thức mô tả toán học khác nhau của cùng một khái niệm cần được khai thác g. Ý nghĩa cần được đặt ưu tiên cao hơn kỹ năng biến đổi công thức h. Toán không phải là kỹ năng tính, mà cần thể hiện các ý tưởng mà nó biểu diễn một cách sâu sắc. 8. Hơn nữa, theo quan điểm của tôi, Toán học có thể dạy cùng với Ngôn Ngữ, dựa trên logic, để diễn tả những thông điệp khác nhau về Văn hóa, Xã hội, Khoa học và thế giới xung quanh ta. Như vậy, Toán học sẽ đi vào thực tế mạnh mẽ như Ngôn Ngữ, giúp Ngôn Ngữ thêm phần tư duy, tránh sáo mòn áp đặt. Đó chính là cái chúng ta cần trong tương lai của Trí khôn nhân tạo và Tính toán phỏng não. Đó là thời đại mà các tư tưởng Phục Hưng và Bừng sáng sẽ trở lại đưa nền văn minh này khỏi các bế tắc hiện nay.
[1] Davenport, M. R. & Watson, D. J. (1993) Whole language: philosophy and work-in progress, in S. K. Brady & T. M. Sills (Eds) Whole Language, History, Philosophy and Practice, pp. 1-17. Dubuque: Kendall/Hunt.
[2] A.L.B.Diaz, A Whole Language Approach in Mathematics Classrooms, Curriculum Studies, 6:1, (1998) 97-112,
[3] Bishop, A. J. (1988) Mathematical Enculturation: a cultural perspective on mathematics education. Dordrecht: Kluwer Academic Publishers.

Sunday, February 5, 2023

BÁC HỌC VÀ CHUYÊN GIA: SỰ TRỞ LẠI CỦA THẾ HỆ PHỤC HƯNG

   1. Ngày nay chúng ta thường nghe đến chữ expert generalist. Elon Musk, Tesla là các thần tượng cho expert generalist. Đây là chữ mới chưa có trong tiếng Việt, những người không biết nội hàm thường dịch thành "chuyên gia tổng hợp" như một nhân viên văn phòng làm công tác tổng hợp tin tức, vốn không cần thật kiệt xuất. Trong khi đó, expert generalist chỉ những người kiệt xuất, có trí tuệ và am hiểu sâu sắc trong nhiều lĩnh vực, có thể nói là các con người khổng lồ về trí tuệ. Thực tế, expert generalist hàm nghĩa tương tự như polymaths, là từ để chỉ các bộ óc vĩ đại của nhân loại như  Leonard da Vinci, Neumann, Feynman, Penrose, Poincare, Bohm,... Tiếng Trung dùng chữ "đa diện thủ" để dịch cả hai chữ. Tuy vậy, chuyển sang Hán-Việt từ này nghe khá tầm thường, cũng giống như chữ "chuyên gia đa giê năng" của ta trước đây, chỉ loại người kiến thức lớt phớt, lông bông, cái gì cũng biết, nhưng không sâu. Có một từ hết sức phù hợp để chỉ những người này là "bác học". Trước đây, chúng ta dùng sai, cứ ai có trình độ nghiên cứu sâu về một vấn đề đều có thể được gọi là "bác học". Đúng nghĩa thì "bác" có nghĩa là rộng lớn như trong nghĩa "quảng bác", "bác ái", "uyên bác". Ngày nay có nhiều vị giáo sư tiến sĩ chuyên nghiên cứu một lĩnh vực, thậm chí chỉ biết một đề tài hẹp, không quan tâm tới xã hội, văn hóa, rất khó gọi là "quảng bác" hay "uyên bác". Có lẽ vì thế, ngày nay chúng ta ít dùng từ này, mà thường dùng chung chung là "nhà khoa học".
   2. Có một thời "bác học" theo nghĩa mới này xung đột với chữ "chuyên gia". Cha ông ta hay nói "nhất nghệ tinh nhất thân vinh", hàm ý cứ cố giỏi một nghề thì sẽ vinh thân, phì gia. Trải qua hàng nghìn năm, điều đó ăn sâu vào tiềm thức chúng ta. Tôi không có ý định lếu láo cho rằng tất cả những gì ông cha chúng ta nói đều sai. Tuy vậy, hiển nhiên các cụ có nhiều điểm sai, không loại trừ nhiều sai hơn đúng. Nếu các cụ đúng cả thì đúng để làm gì, làm sao các cụ lại khổ thế và cũng làm cho chúng ta khổ thế. Cho rằng, có một thời chúng ta chỉ cần học hết lớp 7, bổ túc thêm 9 tháng có thể thành thầy cô giáo cấp Tiểu học, học hết lớp 10, bổ túc 18 tháng có thể dạy trung học cơ sở, chỉ cần tập trung học tối thiểu các kiến thức chuyên ngành là đủ thành nghề. Dạy Văn thì không cần biết Toán, biết Sinh Vật, Sử học, dạy Toán không cần biết Lý, Hóa, Văn, Sử Địa. Dĩ nhiên, tri thức như vậy dù nói phét có giỏi đến đâu, cộng hai số có tinh xảo đến đâu, dùng tu từ, biện thuyết có đặc sắc đến đâu cũng không thể ứng dụng được. Tôi nghĩ, chúng ta loay hoay mãi không có được ngành công nghiệp có sản phẩm đáng kể mặc dù rất nhiều GS, TS, có lẽ do cách đào tạo này. Và cũng phải thừa nhận chúng ta giỏi. 
    3. Có một số lý do cho thấy rằng trong tương lai chuyên gia lĩnh vực hẹp sẽ không còn nữa. Thứ nhất sẽ không có sản phẩm, dịch vụ, lĩnh vực nào chỉ sử dụng tri thức của một lĩnh vực chuyên môn hẹp. Điều thứ hai, những máy tìm kiếm, phần mềm chatbot, máy truy vấn sẽ thay thế hoàn toàn các chuyên gia chỉ để đáp ứng các câu hỏi chuyên ngành lặt vặt, hiếm người biết, ít khi cần, chỉ cần nhớ. Cũng như tự động hóa, máy tính đã xóa sổ các công việc văn phòng, các chuyên gia thông tin tổng hợp chuyên ngành này cũng sẽ hết đất diễn. Không một chuyên gia tổng hợp nào có thể lưu trữ trong bộ óc của mình 200 chữ số sau dấu thập phân của số pi, diện tích và dân số của tất cả các nước ở Đông Nam Á, liệt kê các tính chất của thép, điều x, khoản y, mục z trong Hiến pháp,... tốt bằng một máy tìm kiếm. Một chatbot trong tương lai có thể chứng minh các định lý hình học sơ cấp dễ dàng.
   4. Trong khi đó, việc mỗi người bình thường, với đào tạo hợp lý, với một chương trình và phương pháp huấn luyện phù hợp đều có thể trở thành "bác học" nhờ không cần phải đi sâu vào các kỹ năng chuyên gia, trong quá khứ có thể phải đào tạo trong hàng chục năm, thậm chí cả đời. Một expert generalist hay polymath thường giải quyết mọi vấn đề trong các lĩnh vực khác nhau và luôn luôn sẵn sàng chấp nhận "đem vấn đề tới đây", tiếp cận và giải quyết theo cùng một phương pháp tư duy, dựa trên các "nguyên lý cơ bản" chung. Các nguyên lý cơ bản này cũng giống như nguyên tử, có thể lắp ráp để xây dựng, tạo thành các vật thể khác nhau của thế giới vật chất.
   5. Những người như vậy sẽ có khả năng linh động trong tư duy, học nhanh các lĩnh vực mới và khám phá ra các tri thức mới dễ dàng, do có thể sử dụng lại các tri thức đã biết. Họ cũng dễ dàng thành công trong ứng dụng. Đối với đa số các nhà khoa học được đào tạo trong những năm 1970-2000, thật khó tưởng tượng vì sao Neuman vừa có thể là nhà toán học lý thuyết trong lĩnh vực Logic, Giải tích hàm, vừa có thể là chuyên gia máy tính, vật lý lý thuyết, cơ khí, điều khiển. Đơn giản bởi vì hệ thống giáo dục trong giai đoạn này được thiết kế để đào tạo chuyên gia. 
   6. Tương tự, trong giai đoạn Phục Hưng và Bừng Sáng, các nghệ sĩ như Leonard da Vinci, Michelangelo, đều là các nhà "bác học" bách nghệ, các nhà khoa học như Lagrange, Legendre, Bernoulli, Pascale,... đều giỏi nhiều ngành. 
   7. Nhu cầu xã hội và điều kiện công nghệ đều đã đến lúc cho phép và đòi hỏi sự trở lại của thế hệ Phục Hưng. Nhưng lần này, thế giới phẳng, công nghệ sẽ cho phép và đòi hỏi  những người bình thường cũng phải có tư duy bác học. Nghiên cứu sẽ không còn là kỹ năng độc quyền của các nhà khoa học. Trước hết, giáo dục sẽ phải thay đổi cải cách, tránh đi sâu vào các tiểu tiết mà các máy tìm kiếm, chatbot, máy truy vấn có thể làm tốt hơn người. Rất nhiều câu hỏi mà chúng ta đang đặt ra với sinh viên sẽ trở thành ngớ ngẩn, bóp nghẹt sự sáng tạo của sinh viên, học sinh.
   8. Mỗi người học, mỗi nhà giáo không thể đợi sự thay đổi của hệ thống giáo dục mà hãy tự mình thay đổi cách học, cách dạy, trong phạm vi mình có thể làm được để chuẩn bị cho một tương lai như thế. Trong tương lai đó, một ứng dụng chatbot có thể vượt các thày giáo hiện nay ở mọi phương diện. Điều đó có nghĩa là các thày sẽ phải dạy những điều hoàn toàn khác.
Đọc thêm:
[1] https://www.linkedin.com/pulse/7-reasons-why-future-belongs-generalists-joydeep-dey/
[2] https://skiplist.com/insights/podcast-episode-21-polymaths-and-tech-with-ben-vandgrift-dir-of-engineering-at-skiplist
[3] https://observer.com/2018/05/people-with-too-many-interests-more-likely-successful-polymath-entrepreneurship-antifragile/
[4] https://gainweightjournal.com/return-of-the-renaissance-man-the-future-belongs-to-expert-generalists/
[5] https://gainweightjournal.com/what-makes-a-renaissance-man/

Thursday, September 22, 2022

12 chiến lược thúc đẩy con bạn học tập - Becton Loveless

Hầu hết học sinh giỏi không phải sinh ra đã là học giỏi. Quả thực, tính cách cá nhân đóng một vai trò quan trọng trong việc muốn học của trẻ và tính cách của chúng đối với việc học và giáo dục, nhưng hầu hết những đứa trẻ học giỏi đều phải trở thành người học giỏi ở một thời điểm nào đó. Quan trọng hơn, bất kỳ học sinh nào, có năng lực cơ bản và động lực phù hợp, đều có thể trở thành học sinh giỏi.

Một trong những sai lầm lớn nhất mà giáo viên và phụ huynh có thể mắc phải khi muốn phát triển học sinh và trẻ em học giỏi là hạn chế ở việc học trong lớp. Tuy lớp học có thể là nguồn giảng dạy chính, sự phát triển về trí tuệ, xã hội và học tập nên được mở rộng ra ngoài các bức tường của lớp học - nếu bạn muốn thực sự nâng cao khao khát và khả năng học hỏi của trẻ.

Sau đây là những mẹo và chiến lược đã được thử nghiệm sẽ thúc đẩy con bạn học. Hãy áp dụng chúng một cách chính xác, bạn sẽ thấy con hoặc học sinh của mình khám phá ra niềm vui học tập.

1. Phát triển bầu không khí đọc

Một số người sẽ tranh luận việc đọc có phải chìa khóa thành công trong cuộc sống hay không. Chúng tôi chắc chắn sẽ lập luận được rằng đọc tối thiểu là chìa khóa để thành công trong học tập. Những trẻ em phát triển việc yêu thích đọc sách, sẽ cũng phát triển niềm yêu thích học tập. Trẻ em gặp khó khăn với việc đọc, sẽ vật vã với việc học.

Đọc sách không chỉ giúp trẻ phát triển vốn từ vựng phong phú hơn mà còn giúp não bộ của trẻ học cách xử lý các khái niệm và giao tiếp xã giao. Các kỹ năng đạt được từ việc đọc sẽ mở rộng vượt xa hơn  kết quả học tập trong các lớp về ngữ văn. Những học sinh đọc tốt sẽ nâng cao được khả năng học tập trong tất cả các môn học - bao gồm cả các môn kỹ thuật như toán và khoa học.

Giúp con bạn phát triển kỹ năng đọc và niềm yêu thích đọc sách bằng cách lấp đầy thế giới của mình bằng việc đọc. Đọc cho con bạn nghe thường xuyên. Yêu cầu con bạn đọc to. Tạo thời gian đọc sách cho gia đình, nơi mọi người tập trung đọc 20 phút mỗi ngày. Thông qua tấm gương của chính bạn về việc đọc sách và bằng cách lấp đầy lớp học và /hoặc nhà của bạn bằng các sách vở đọc (tiểu thuyết, áp phích, báo, tạp chí, v.v.), bạn sẽ tạo ra một bầu không khí đọc để chứng minh cho con (hoặc học sinh) của bạn thấy đọc là quan trọng thế nào.

Chìa khóa để phát triển người đọc tốt là phải làm cho việc đọc trở nên thú vị - không gây khó chịu. Nếu một đứa trẻ quyết định rằng việc đọc sách là nhàm chán hoặc bực bội, chúng sẽ không muốn đọc và khả năng học hỏi của chúng sẽ bị giảm sút. Hãy để trẻ tự chọn sách để đọc, giúp trẻ đọc và tạo cho trẻ các hoạt động khiến việc đọc sách trở nên thú vị.

2. Hãy đặt con bạn vào ghế lái càng nhiều càng tốt

Khi nói đến giáo dục, tất cả những gì trẻ phải trải nghiệm là kiểm soát, kiểm soát và kiểm soát. Khi một đứa trẻ cảm thấy bị kiểm soát, hoặc mất kiểm soát khi nói đến việc học của chúng, chúng thường trốn tránh việc học. Hướng dẫn trẻ trong quá trình học tập là điều quan trọng, nhưng việc cho phép trẻ kiểm soát trải nghiệm học tập của chính mình cũng quan trọng không kém. Cho dù ở nhà hay trong lớp học, hãy tạo cơ hội cho trẻ góp ý ​​trực tiếp vào các lựa chọn học tập của chúng. Một cách tốt để làm điều này là đưa ra cho trẻ các tùy chọn. Ví dụ, khi giao một dự án viết, hãy cho phép trẻ chọn chủ đề để viết.

Chúng tôi cũng khuyên bạn cho phép trẻ tự chọn các hoạt động ngoại khóa. Bạn càng cho trẻ nhiều quyền kiểm soát và đầu vào, đối với môi trường học tập, hoạt động và phong cách của chúng, trẻ sẽ càng muốn tham gia và có động lực học tập hơn.

3. Hãy khuyến khích giao tiếp cởi mở và chân thành

Hãy khuyến khích con hoặc học sinh bạn bày tỏ ý kiến ​​của mình về những gì đang xảy ra với việc học.  Hãy tạo một bầu không khí cởi mở để chúng thoải mái khi bày tỏ sở thích, điều không thích hoặc quan tâm của mình. Khi chúng chia sẻ ý kiến, hãy đảm bảo tôn trọng cảm nghĩ của chúng - ngay cả khi bạn không đồng ý. Khi trẻ cảm thấy dường như ý kiến ​​của mình không được coi trọng hoặc chúng bị bế tắc, chúng có khả năng từ bỏ quá trình học tập. Những người học giỏi biết ý kiến ​​của họ là quan trọng và cảm thấy yên tâm rằng họ có thể cởi mở về kinh nghiệm của mình mà không bị phán xét, hạ thấp, làm mất tinh thần hoặc phớt lờ.

4. Tập trung vào sở thích của con bạn

Khi việc học thu hút trẻ em vào các lĩnh vực và chủ đề quan tâm, nó sẽ trở nên thú vị và trẻ sẽ tham gia vào việc học. Nếu bạn thực sự muốn giúp con mình trở thành một người học giỏi, hãy khuyến khích con khám phá các chủ đề và môn học khiến con say mê. Nếu chúng thích khủng long, hãy giúp chúng tìm những cuốn sách và câu chuyện hấp dẫn và thú vị về khủng long. Sau đó, thách thức chúng xác định năm con khủng long yêu thích của mình và giải thích lý do tại sao chúng chọn mỗi con.

5. Giới thiệu và khuyến khích các phong cách học tập khác nhau

Mỗi đứa trẻ đều có những sở thích và phong cách học tập phù hợp nhất với chúng. Một số trẻ có một phong cách học tập nổi trội, trong khi những trẻ khác thích sử dụng kết hợp các phong cách học tập khác nhau. Không nhất thiết phải có một phong cách học tập đúng hay sai, hay phải kết hợp các phong cách học tập. Tuy nhiên, bằng cách giúp con bạn khám phá phong cách học tập ưa thích của mình, bạn có thể sử dụng các kỹ thuật để cải thiện tỷ lệ và chất lượng học tập của trẻ.

Có bảy phong cách học cơ bản: Thị giác, Thính giác, Lời nói, Vật lý, Logic (toán học), Xã hội và Cá nhân. Ví dụ, những đứa trẻ học qua Thị giác sẽ học tốt nhất bằng cách nhìn xem mọi thứ sẽ hoạt động như thế nào. Ngược lại, những đứa trẻ học qua Thính giác sẽ học tốt nhất bằng cách lắng nghe những điều được giải thích. Đối với trẻ nhỏ, việc khám phá và sử dụng các phong cách học khác nhau sẽ rất hữu ích.

6. Chia sẻ sự nhiệt tình học hỏi của bạn

Niềm đam mê sẽ được hình thành, đặc biệt là khi học những điều mới. Nếu con hoặc học sinh của bạn thấy bạn thực sự nhiệt tình học, chúng có khả năng trở nên nhiệt tình với việc học. Cho dù đó là lịch sử, khoa học, đọc, viết hay thậm chí là toán học, hãy giúp trẻ thấy rằng học tập là một hành trình khám phá mới thú vị. Tận dụng mọi cơ hội - không quá áp đặt hoặc quá độc đoán - để khám phá thông tin mới với chúng. Khi con bạn nhận thấy niềm vui và hứng thú học tập mang lại cho cuộc sống của bạn, trẻ cũng sẽ bắt đầu chia sẻ sự nhiệt tình của bạn đối với việc học những điều mới.

7. Làm cho việc học trở nên thú vị thông qua việc học dựa trên trò chơi

Học tập dựa trên trò chơi không phải là một khái niệm mới. Nó đã có từ rất lâu. Học tập dựa trên trò chơi có thể rất thuận lợi vì nhiều lý do. Sử dụng trò chơi như một công cụ giáo dục không chỉ mang lại cơ hội học tập sâu hơn và phát triển các kỹ năng phi nhận thức, giúp thúc đẩy trẻ muốn học. Khi một đứa trẻ tích cực tham gia vào một trò chơi, tâm trí của chúng được trải nghiệm niềm vui khi học một hệ thống mới. Điều này đúng bất kể trò chơi được coi là "giải trí" (ví dụ: trò chơi điện tử) hay "nghiêm túc" (ví dụ: phần mềm mô phỏng quân sự). Các trò chơi mang tính giải trí mang lại lợi ích bổ sung là thúc đẩy trẻ em muốn tham gia vào quá trình học tập và muốn tìm hiểu thêm.

Học tập dựa trên trò chơi cũng là một động lực hiệu quả cho học tập theo nhóm - điều này có thể đặc biệt có lợi cho trẻ em trong môi trường lớp học. Học sinh thường cố gắng trong các trò chơi hơn là trong các khóa học. Trò chơi hấp dẫn hơn. Ngoài ra còn có khía cạnh cạnh tranh để chơi trò chơi. Học sinh cố gắng cạnh tranh hoặc giành chiến thắng, nhân danh bản thân hoặc nhóm của họ. Chúng có thể cố gắng thi đấu ở cấp độ cao hơn để kiếm thêm điểm cho đội của mình hoặc vì chúng muốn có cơ hội thi đấu.

Học tập dựa trên trò chơi là một cách tuyệt vời để cha mẹ và giáo viên đưa ra những ý tưởng, quy tắc ngôn ngữ, khái niệm và kiến ​​thức mới nhằm thúc đẩy trẻ học tập.

8. Tập trung vào những gì trẻ đang học, không phải vào kết quả của chúng

Thay vì hỏi con bạn xem con đã làm bài kiểm tra toán như thế nào ngay khi con đi học về, hãy để con dạy bạn những gì con đã học trong môn toán hôm nay. Tập trung vào những gì con bạn đang học, trái ngược với việc trẻ thể hiện như thế nào. Mặc dù thành tích là quan trọng, nhưng việc tập trung vào trải nghiệm học tập của con, bạn sẽ (1) truyền đạt cho con bạn rằng việc học thực tế quan trọng hơn điểm kiểm tra, (2) kết quả không phải là điều quan trọng nhất, (3) bạn quan tâm đến con hơn kết quả của con và (4) bằng cách tập trung vào trải nghiệm học tập của con vào ngày hôm đó, bạn sẽ tạo cơ hội cho con hiểu bài học của mình và củng cố những gì con đã học được.

9. Giúp con bạn luôn ngăn nắp

Giúp con bạn sắp xếp giấy tờ, sách vở và bài tập sẽ giúp trẻ cảm thấy có động lực học tập hơn. Tình trạng vô tổ chức là điển hình ở trẻ nhỏ ở độ tuổi đi học, nhưng nó cũng có thể dẫn đến cảm giác bị choáng ngợp. Trẻ em sẽ bị quá tải vì phải dành nhiều thời gian và công sức để thất vọng và lo lắng hơn là học. Hãy kiên nhẫn, nhưng nhất quán, trong việc giúp con bạn sắp xếp đồ dùng học tập và bài tập của mình. Điều này sẽ giúp chúng cảm thấy kiểm soát được, bớt choáng ngợp và có động lực học hỏi hơn.

10. Ghi nhận và tôn vinh những thành tựu

Dù trẻ có nhỏ đến đâu, điều quan trọng là bạn phải ghi nhận và tôn vinh những thành tích của chúng. Điều này đặc biệt quan trọng đối với trẻ ở độ tuổi tiểu học, cần được củng cố tích cực liên tục để giữ cho chúng có động lực học tập và thử thách bản thân để làm tốt hơn. Chúng tôi không khuyên bạn nên khen ngợi sự tầm thường mà là bạn thể hiện sự công nhận và tán dương thành tích của con mình. Hoàn thành một dự án khó khăn xứng đáng được đối xử đặc biệt; làm tốt bài kiểm tra toán có thể được tưởng thưởng một lần mua kem. Luôn sử dụng sự củng cố tích cực như một công cụ để thúc đẩy việc học tập với con bạn.

11. Tập trung vào điểm mạnh

Tập trung vào điểm mạnh có thể khó khi con bạn đang gặp quá nhiều khó khăn trong học tập. Mặc dù vậy, tập trung vào điểm mạnh của con bạn là điều cần thiết cho sự phát triển và tiến bộ lành mạnh về cảm xúc và học tập. Tập trung vào điểm mạnh của con bạn là một hình thức củng cố tích cực thúc đẩy con tiếp tục học tập. Ngược lại, tập trung vào những điểm yếu của con, bạn không làm được gì khác ngoài việc gây ra chán nản, lo lắng và mất đi tính ham học hỏi. Con đã trượt bài kiểm tra toán của mình? Vậy thì, ngoài việc giúp con thêm một chút về môn toán, hãy nhớ chúc mừng con vì con đã học tốt trong lớp Khoa học.

12. Hãy biến mỗi ngày thành một ngày học tập

Biến mỗi ngày thành một ngày học nghe có vẻ hơi ôm đồm, nhưng thực sự không phải vậy, nếu bạn làm đúng cách. Bất cứ khi nào có thể, hãy khuyến khích con bạn khám phá thế giới xung quanh, đặt câu hỏi và kết nối. Hãy giúp con phân loại và suy nghĩ thật kỹ về những gì con thấy và trải nghiệm. Biến mỗi ngày thành một ngày học tập sẽ giúp con bạn phát triển động lực bên trong để học ở lớp, ở nhà hoặc ở bất cứ đâu.

(Aiviet dịch nhanh)

 

Tiếp cận tổng thể tới dạy Ngôn Ngữ và Toán

 1.  Nếu như Trí khôn nhân tạo sẽ thay đổi yêu cầu về nhân lực trong tương lai, vai trò của các nhà bác học đa ngành (polyma...